Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nhiều địa phương vùng ĐBSCL đứng trước nỗi lo xâm nhập mặn, từ đó các mô hình sản xuất, dự án nghiên cứu trong nông nghiệp nhằm giúp nông dân thích ứng và phát triển tốt trong điều kiện hạn mặn đã được hình thành.
Năm 2017, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ hợp tác với Trường Đại học Liège và Trường Đại học Namur (Bỉ) xây dựng dự án “Hướng đến sự bền vững trong sản xuất giống cá tra: tiếp cận theo phương pháp chọn lọc” (gọi tắt là Dự án PANGAGEN).
Một trong những mục tiêu của Dự án PANGAGEN là phát triển dòng cá tra chịu mặn, hướng đến phát triển sản xuất giống cá tra và cung cấp con giống chịu mặn tốt, chất lượng cao cho nghề nuôi cá tra, đặc biệt là vùng bị xâm nhập mặn vùng ĐBSCL. Thời gian triển khai dự án từ năm 2017 – 2022.
Theo PGS.TS Dương Thúy Yên, Phó Trưởng Bộ môn Kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt, Khoa Thủy sản và cũng là thư ký khoa học của dự án, ý tưởng thuần hóa cá tra trong môi trường nước mặn đã được khởi xướng từ trước năm 2017.
Trong một số nghiên cứu tại Khoa Thủy sản và từ thực tế các hộ nuôi cá tra đã cho thấy, cá tra có khả năng chịu được nước lợ. Đặc biệt, trong năm 2016 nước lợ xâm nhập sâu vào nội đồng, điều này thúc đẩy các nhà khoa học quyết tâm thực hiện dự án.
“Chúng tôi tập hợp cá giống từ 3 trang trại ở các tỉnh Vĩnh Long, An Giang và TP Cần Thơ, mỗi trại gồm 10 con cá cái và 10 con cá đực, cho sinh sản chéo và tạo ra được khoảng 900 gia đình cá tra (gọi là thế hệ G1).
Thế hệ G1 được ương trong ao nước ngọt, khi cá đạt khối lượng 4 – 5 gram, nhóm nghiên cứu tiến hành thuần hóa cá tra trong môi trường nước có độ mặn 10 phần nghìn trong hệ thống bể tuần hoàn nước.
Sau một năm, cá tra thế hệ G1 tiếp tục được nuôi dưỡng ở nguồn nước có độ mặn 5 phần nghìn đến khi thành cá bố mẹ”, PGS.TS Dương Thúy Yên chia sẻ về quy trình thuần hóa cá tra.
Trong hệ thống bể tuần hoàn nước, độ mặn được kiểm soát ở mức 10 phần nghìn và được duy trì ổn định, cách làm này sẽ tập cho cá tra quen với môi trường nước mặn. Tạo thuận lợi cho nhóm nghiên cứu trong quá trình đánh giá khả năng thích ứng của cá tra trong điều kiện nước mặn.
Quá trình nuôi trong một năm, cá tra trải qua 3 lần chọn lọc, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn ra 50% những con cá lớn nhất trong đàn để giữ lại và lấy một nhóm ngẫu nhiên để làm đối chứng với đàn cá chọn lọc.
Đánh giá về kết quả đạt được, PGS. TS Dương Thúy Yên cho biết: “Khi cá tra đạt một năm tuổi kích thước cá đạt khoảng 1,4 kilogram, cá ngẫu nhiên không chọn lọc chỉ đạt khoảng 780 gram, nhỏ hơn nhiều so với cá chọn lọc”.
Để đánh giá khả năng thích nghi độ mặn của dòng cá tra chọn lọc, đàn con của đàn cá thế hệ G1 được so sánh với cá tra nước ngọt khi cùng ương, nuôi ở các độ mặn khác nhau, như 5 phần nghìn, 10 phần nghìn, 15 phần nghìn và 20 phần nghìn.
PGS.TS Dương Thúy Yên nhận định, khi nuôi từ cá giống đến giai đoạn thương phẩm, ở mức độ mặn 5 phần nghìn và 10 phần nghìn cá tra chọn lọc phát triển tốt hơn cá tra nước ngọt, 15 phần nghìn cá vẫn chịu được tuy nhiên sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng và độ mặn 20 phần nghìn sẽ ảnh hưởng rất nhiều. Với cá bột đến 21 ngày, cá giảm tăng trưởng và tỉ lệ sống ở 10 phần nghìn.
“Như vậy, với môi trường độ mặn ở mức 5 phần nghìn và 10 phần nghìn, cá tra chịu mặn tăng trưởng tốt. Nếu nuôi trong nước ngọt, tỷ lệ sống và tăng trưởng con cá tra chịu mặn bằng hoặc tốt hơn những con cá nuôi trong nước ngọt”, đây là kết quả được nhóm nghiên cứu đưa ra.
Tuy nhiên, theo PGS.TS Dương Thúy Yên khó khăn lớn nhất trong quá trình thực hiện dự án, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 trong 2 năm qua, việc chuyển giao con giống cho các địa phương để nuôi thực tế tại ao nuôi của các hộ dân ở khu vực nước mặn vẫn chưa thực hiện được, điều này đang là trở ngại của nhóm nghiên cứu.
Trong năm 2022 này, nhóm nghiên cứu lên kế hoạch đưa cá tra vào nuôi thực tế tại các hộ dân để sản xuất và đánh giá hiệu quả thích ứng nước mặn của cá tra.
Đồng thời, dự án sẽ tiếp tục chọn lọc các thế hệ cá tiếp theo, với hy vọng khả năng đời sau cá tra có thể phát triển ở độ mặn cao hơn, nhằm cung cấp các giải pháp bền vững và toàn diện cho nghề nuôi cá tra.